Trong đời sống xã hội Việt Nam, việc nhận nuôi con nuôi đã tồn tại từ lâu, với nhiều lý do và mục đích khác nhau, nhưng phần lớn đều xuất phát từ tâm của mỗi người, từ sự yêu thương mong muốn giúp đỡ người khác, cũng vì lối quan niệm như vậy mà việc nhận con nuôi, nhận cha mẹ nuôi đã được thực hiện khá rộng rãi trong đời sống nhân dân. Tuy nhiên việc nhận nuôi con nuôi đã được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hay chưa? Thì đây vẫn đang là câu hỏi lớn của toàn xã hội.
Thực tế cho thấy khá nhiều các trường hợp nhận con nuôi nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là những trường hợp xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội. Tuy nhiên không phải tất cả các trường hợp nhận nuôi con nuôi không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều là nuôi con nuôi thực tế. Như vậy có thể thấy, việc nhận nuôi con nuôi không phải chỉ thực hiện theo cảm tính, muốn giúp đỡ là có thể nhận nuôi con nuôi, mà còn phải tuân theo các quy định của pháp luật, để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người nhận nuôi và người được nhận nuôi trên thực tế.
I. Khái quát chung về vấn đề nuôi con nuôi:
1.1 Khái niệm, bản chất và ý nghĩa về nuôi con nuôi
– Khái niệm con nuôi: Theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010, khái niệm con nuôi được quy định tại khoản 3 Điều 3 của luật này: “Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng kí”. Tại khoản 1 Điều 3 của Luật Nuôi con nuôi cũng quy định về khái niệm nuôi con nuôi: ”Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận là con nuôi”.
– Bản chất của việc nuôi con nuôi: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các bên đương sự thể hiện rõ ràng ý chí của mình đồng thời đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết của việc nuôi con nuôi. Nói cách khác, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các sự kiện cấu thành đã hội tụ đầy đủ và được liên kết lại với nhau tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi. Vì vậy có thể nói dưới góc độ là sự kiện pháp lí, việc nuôi con nuôi có bản chất là cấu thành sự kiện hay là sự kiện pháp lí phức hợp giản đơn (còn gọi là phức hợp tự do).
– Với ý nghĩa là sự kiện pháp lí, việc nuôi con nuôi bao gồm các sự kiện sau:
+ Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi: người nhận nuôi con nuôi luôn chủ động và độc lập trong việc nhận nuôi con nuôi. Việc nhận nuôi con nuôi thể hiện rõ ý chí đơn phương từ phía người nhận nuôi. Người nhận nuôi con nuôi thể hiện ý chí của mình một cách chủ động, khách quan thông qua đơn xin nhận nuôi con nuôi. Như vậy có thể nói sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi là hành vi pháp lí đơn phương, nó chỉ có hiệu lực khi được các chủ thể có liên quan tiếp nhận.
+ Sự thể hiện ý chí của người cho con nuôi ( cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của đứa trẻ được nhận làm con nuôi): sự thể hiện ý chí của người cho con nuôi là hành vi pháp lí đơn phương, thể hiện ý chí độc lập của một bên chủ thể (bên cho con nuôi). Hành vi pháp lí đơn phương này chỉ phát sinh hậu quả pháp lí khi có sự tiếp nhận của chủ thể phía bên kia là người nhận nuôi con nuôi và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
+ Sự thể hiện ý chí của người con nuôi: sự đồng ý của bản thân người được nhận làm con nuôi được coi là hành vi pháp lí đơn phương, phát sinh một cách độc lập, vào bất cứ thời điểm nào mà không phụ thuộc vào ý chí của cha mẹ đẻ, người giám hộ.
+ Sự thể hiện ý chí của cơ quan nhà nước: Ý chí của Nhà nước được thể hiện qua việc công nhận (hay không công nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi (hay từ chối việc đăng kí nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi được công nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lí của việc nuôi con nuôi.
– Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi: Việc nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương, tinh thần, trách nhiệm và mối quan hệ tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người. Là biện pháp tích cực giúp đỡ trẻ em không nơi nương tựa có mái ấm gia đình, được chăm sóc và phát triển trong điều kiện tốt nhất. Đồng thời, việc nuôi con nuôi còn giảm được gánh nặng về tài chính, kinh tế cho Nhà nước ta trong việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
1.2. Điều kiện nuôi con hợp pháp:
Nuôi con nuôi gồm có trường hợp nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Đối với trường hợp nuôi con nuôi trong nước, điều kiện đối với người nhận con nuôi được quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010, theo khoản 1, người nhận con nuôi phải có đủ điều kiện sau: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt. Hai điều kiện tại điểm b và c khoản này không được áp dụng trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi ( theo khoản 3 Điều này). Ngoài ra, khoản 2 Điều 14 còn quy định các trường hợp những người không được nhận con nuôi một cách cụ thể.
Đối với trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, các trường hợp nuôi con nuôi và điều kiện của người nhận nuôi được quy định tại Điều 28, 29 Chương III, Luật Nuôi con nuôi 2010. Trong đó, người nhận con nuôi cũng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại Điều 14 luật này
Còn điều kiện về người được nhận làm con nuôi được quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 gồm có: Trẻ em dưới 16 tuổi; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi, được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi; Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng; Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.
Đối với trường hợp những người ở độ tuổi từ 16 đến 18 chưa thể tự nuôi sống bản thân, tâm sinh lí cũng chưa phát triển hoàn thiện. Vì vậy pháp luật quy định người ở độ tuổi này có thể được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi để đảm bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Ngoài ra, mục 2, chương 2 của nghị định 19/2011/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành Luật nhận nuôi con nuôi có nêu đầy đủ về việc nhận nuôi con người nước ngoài cũng như người ngoại quốc nhận nuôi con tại Việt Nam.
1.3. Hệ quả pháp lý việc nuôi con nuôi
Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi là những vấn đề pháp lý phát sinh khi quan hệ nuôi con nuôi được pháp luật công nhận. Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định: “ kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi cũng có quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Theo đó kể từ thời điểm đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi sẽ có quyền và nghĩa vụ đối với con như chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con , là người đại diện pháp luật cho con chưa thành niên, mất năng lực hành vi, con nuôi cũng có bổn phận phải yêu quý, kính trọng, chăm sóc; cha mẹ nuôi và con nuôi có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau theo quy định của pháp luật thừa kế…Bên cạnh đó, Luật nuôi con nuôi quy định thêm về mối quan hệ pháp lý giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Thêm nữa, giữa cha mẹ đẻ và con nuôi sẽ không còn quyền và nghĩa vụ được nêu trong khoản 4 điều 24, trường hợp này xảy ra khi cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thoả thuận gì hoặc thoả thuận chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ trên. Cha mẹ đẻ vẫn còn các nghĩa vụ nói trên đối với con đã cho làm con nuôi, điều này phải dựa trên thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Trường hợp này tuỳ theo sự thoả thuận với cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ vẫn còn toàn bộ quyền và nghĩa vụ nói trên với con nuôi hoặc chỉ một số quyền và nghĩa vụ nhất định.
Trường hợp con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi mà phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh đang lưu giữ tại Ủy ban nhân dân cấp xã còn để trống, thì căn cứ vào Giấy chứng nhận nuôi con nuôi, công chức tư pháp – hộ tịch ghi bổ sung các thông tin của cha mẹ nuôi vào phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và sổ đăng ký khai sinh của con nuôi; tại cột ghi chú trong Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi và dân tộc của con nuôi trong trường hợp này được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.
Cha mẹ nuôi có thể yêu cầu thay đổi họ tên của người con nuôi nhưng nếu con nuôi là người đủ 09 tuổi trở lên thì khi thay đổi họ tên phải có sự đồng ý của người con nuôi đó. Ngoài ra khi có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, sự đồng ý của con nuôi từ 9 tuổi trở lên về việc thay đổi phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi; thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh cho trẻ em đăng ký khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi Giấy khai sinh cũ; tại cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi. Nhưng về dân tộc của con nuôi sẽ không được thay đổi.
II. Thực trạng pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi
Trước khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời, chế định về việc nuôi con nuôi được quy định tản mạn ở các văn bản pháp luật khác nhau như Luật Hôn nhân và gia đình 2010, Bộ Luật Dân sự năm 2005, Nghị định 158/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch…Sự thiếu rõ ràng, chặt chẽ và thống nhất của hệ thống pháp luật đã tạo cơ hội cho một số cá nhân lợi dụng cơ chế nhằm mục đích trục lợi, không vì mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em khiến cho việc thực thi trên thực tế rất khó khăn. Việc ra đời lần lượt của Luật Nuôi con nuôi 2010, Nghị định 11/2019/NĐ-CP, Nghị định 24/2019/NĐ-CP,… ra đời đã tạo ra cơ sở pháp lí thống nhất, rõ ràng, vững chắc cho việc nuôi con nuôi trên thực tế. Pháp luật về nuôi con nuôi đã đưa ra nguyên tắc, điều kiện nuôi con nuôi; thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ của cha mẹ nuôi, con nuôi và cha mẹ đẻ; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc nuôi con nuôi,… giúp cho việc nhận nuôi con nuôi thuận tiễn, dễ dàng hơn trước. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng pháp luật nuôi con nuôi vẫn còn nhiều bất cập, tồn tai. Cụ thể như sau:
2.1. Thực trạng về điều kiện nuôi con nuôi.
2.1.1. Điều kiện của người được nhận làm con nuôi.
Về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi, trong khoản 1 điều 8 Luật nuôi con nuôi có quy định người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi. Đây là một quy định thừa thãi không cần thiết vì trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Trẻ em năm 2016 đã nêu rõ “ trẻ em là người dưới 16 tuổi” (Điều 1, Luật Trẻ em năm 2016). Ngoài quy định về độ tuổi thì Luật nuôi con nuôi không có thêm bất cứ điều kiện nào đối với người được nhận làm con nuôi, đây là một thiếu sót của pháp luật dẫn đến nhiều vấn đề bất cập trên thực tế. Chính vì không đưa ra những điều kiện về hoàn cảnh cụ thể mà chỉ khuyến khích nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn làm con nuôi mà đã có không ít những trường hợp lợi dụng việc nhận con nuôi để vi phạm chính sách dân số, làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để được hưởng những chính sách, chế độ ưu đãi của Nhà nước.
Tại khoản 3, điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 có quy định một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc cả hai người là vợ chồng, đây là một quy định chưa thực sự chính xác. Bởi lẽ trên thực thế vẫn có những trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi, điều này hoàn toàn hợp tình hợp lí. Quy định này của pháp luật không hợp lí ở chỗ khi mà cha dượng hoặc mẹ kế với tư cách là người nhận nuôi thì họ không độc thân mà vợ hoặc chồng của họ chính là cha mẹ đẻ đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đứa trẻ.
2.1.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con.
Theo điểm a, khoản 1, điều 14 Luật Nuôi con nuôi thì người nhận con nuôi phải là người có năng lực hành vi dân sự từ đó có thể suy đoán người mất năng lực hành vi dân sự sẽ không được nhận con nuôi. Trên thực thế người được coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của Tòa án vậy đối với những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi mà chưa có quyết định của Tòa án thì có thể nhận con nuôi không ? Có thể thấy quy định này của pháp luật chưa thực sự chặt chẽ và chưa bao quát hết được những trường hợp có thể xảy ra. Những đứa trẻ sống chung với những người như thế sẽ rất dễ bị ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần thậm chí là tính mạng , đồng thời những người bị hạn chế năng lực hành vi khó có thể chăm sóc tốt cho bản thân nên việc chăm sóc cho những đứa trẻ vốn đã có nhiều thiệt thòi lại càng thêm khó.
Theo điểm b, khoản 1, điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định về khoảng cách độ tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi là từ 20 tuổi trở lên nhưng lại không có quy định về khoảng cách độ tuổi tối đa. Vì vậy, không loại trừ khả năng người nhận con nuôi là người có độ tuổi cao hơn rất nhiều so với đứa trẻ. Khi mà giữa hai thế hệ cách nhau quá xa về tuổi tác thì cách giáo dục nuôi dạy đứa trẻ sẽ khác, điều đó có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến cả hai khi quan điểm và cách sống khác nhau quá sẽ dễ phát sinh những mâu thuẫn. Vậy nên, để việc nhận nuôi dưỡng, bảo vệ, giáo dục đứa trẻ được diễn ra ổn định lâu dài thì rất cần thiết có những quy định bổ sung cho điều luật này.
Người nhận nuôi phải có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi (theo điểm c, khoản 1, điều 14) và phải có tư cách đạo đức tốt (điểm d, khoản 1, điều 14). Quy định này của pháp luật còn quá chung chung rất khó trong việc xác định đặc biệt là tư cách đạo đức của cha mẹ nuôi. Trên thực thế có rất nhiều vụ việc cha mẹ nuôi bạo hành con là một minh chứng rõ ràng chứng minh sự thiếu sót này.
2.2. Khó khăn trong thực hiện thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi.
Thủ tục giải quyết việc nuôi con trên thực tế còn tồn tại nhiều vấn đề vướng mắc. Trong việc xác minh nguồn gốc gia đình của trẻ em, nhiều trường hợp nguồn gốc trẻ em chưa được xác định rõ ràng. Theo quy định tại khoản 1 điều 16 Nghị định 19/2011/Nđ-CP thì trẻ em bị bỏ rơi được cho làm con nuôi ở nước ngoài, thì phải có văn bản xác minh và kết luận rõ ràng của Công an cấp tỉnh về nguồn gốc trẻ em bị bỏ rơi, không xác định được cha mẹ đẻ. Tuy nhiên việc xác định rõ nguồn trẻ em bị bỏ rơi cần được thực hiện ngay khi phát hiện trẻ bị bỏ rơi để đảm bảo việc xác minh nguồn gốc của trẻ, không phụ thuộc vào việc trẻ sẽ được nhận làm con nuôi trong nước hay con nuôi nước ngoài. Bên cạnh đó, còn tồn tại nhiều trường hợp không xác minh rõ nguồn gốc của trẻ do thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng.
Theo Điều 9 Luật Nuôi con nuôi, UBND cấp xã nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước. Tuy nhiên nhiều trường hợp cả hai chủ thể trên đều không sinh sống tại nơi thường trú hoặc không có nơi thường trú dẫn tới việc xác định thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi găp nhiều khó khăn.
Trong quá trình thực hiện thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi có yếu tố nước ngoài, việc lập danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế ở các cơ sở nuôi dưỡng chủ yếu dựa trên tình trạng sức khỏe của trẻ em nhưng còn nhầm lẫn, thiếu chính xác dẫn tới khi làm xong thủ tục thì không thể đưa trẻ ra nước ngoài cùng cha mẹ nuôi được. Bên cạnh đó, việc đánh giá nhu cầu của trẻ em cần tìm gia đình thay thế mới chỉ xem xét trên cơ sở pháp lý, chưa lưu ý tới những tiêu chí khác như nhu cầu, đặc điểm tâm lí, thói quen, năng khiếu, hoàn cảnh gia đình – xã hội của trẻ theo yêu cầu tại điểm a khoản 1 điều 16 Công ước La Hay.
Ngoài ra, trong thực tế, hiện tượng trẻ em được nuôi ở các chùa khá nhiều. Việc giải quyết cho sư trụ trì nhận trẻ em làm con nuôi là không phù hợp từ nhiều góc độ, đặc biệt là môi trường sống.
2.3. Thực trạng pháp luật về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi.
Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi trên cơ sở ba bên. Đây là quy định có nhiều tiến bộ so với trước đây tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc. Trong quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ nuôi, dân tộc của con nuôi không nên được thay đổi theo dân tộc của cha mẹ nuôi bởi việc nuôi con nuôi không làm thay đổi dân tộc của con nuôi; tránh hành vi lợi dụng chính sách ưu đãi của nhà nước đối với người dân tộc qua lợi dụng việc nuôi con nuôi. Trong quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi, quy định tại khoản 1 điều 24 Luật Nuôi con nuôi là một điều rất tiến bộ khi lần đầu tiên ghi nhận sự điều chỉnh mối quan hệ này. Tuy nhiên, Luật nuôi con nuôi chưa xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi với con nuôi dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau. Trong quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ và gia đình gốc, khoản 4 điều 24 Luật Nuôi con nuôi không quy định rõ ràng việc nuôi con nuôi có làm chấm dứt quan hệ pháp lí giữa cha mẹ đẻ và con đã cho làm con nuôi hay không. Quy định này cũng không phù hợp với thực tiễn do khi nhận nuôi, cha mẹ nuôi luôn mong muốn không xảy ra tranh chấp khi thực hiện quyền của cha mẹ với con cái giữa cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ.
Hệ quả pháp lý của việc nuôi con có yếu tố nước ngoài phụ thuộc vào việc nuôi con nuôi thực hiện ở trong nước hay ở nước ngoài. Theo quy định của Công ước La Hay, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện việc nuôi con nuôi. Luật Nuôi con nuôi hiện hành chỉ có một quy định duy nhất tại điều 24 điều chỉnh quan hệ pháp lý của việc nuôi con nuôi, mà không có quy định nào khác điều chỉnh về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Điều 24 Luật nuôi con nuôi điều chỉnh hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở trong nước và được áp dụng với việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam nhận trẻ em ở Việt Nam làm con nuôi (điều 41 Luật Nuôi con nuôi). Đối với trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài khác không có một quy phạm nào xác định pháp luật được áp dụng điều chỉnh hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Đây là một lỗ hổng pháp lý lớn cần sớm được khắc phục.
2.4. Bất cập trong giải quyết chấm dứt việc nuôi con.
Khoản 1 điều 25 Luật Nuôi con nuôi có quy định: “Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi” điều này không phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi. Khi mối quan hệ nuôi con nuôi được thiết lập họ luôn hy vọng sẽ có mỗi quan hệ bền vững, lâu dài ổn định và hạnh phúc. Nếu cha mẹ và con nuôi không có xích mích lớn thì việc tự nguyện chấm dứt việc nuôi con là khó có thể xảy ra. Đối với trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi do lỗi của con nuôi đối với cha mẹ tại điều 25 khoản 2 thì lại cho ta thấy sự không tương xứng. Nếu con nuôi chỉ có hành vi phá tán tài sản của bố mẹ nuôi mà đã vội vã đưa ra quyết định chấm dứt mối quan hệ nuôi dưỡng thì chưa hợp lí. Đứa trẻ phạm sai lầm thì cần có sự giáo dục, dạy dỗ từ phía gia đình mới thể hiện được vai trò của cha mẹ nuôi đối với đứa trẻ. Còn nếu muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi thì việc phá tán tài sản này phải là hành động diễn ra thường xuyên gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài chính của cha mẹ nuôi.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật thì “một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng” (Khoản 3, Điều 8 Luật Nuôi con nuôi). Tuy nhiên, trong trường hợp cha mẹ nuôi không còn đủ điều kiện nuôi dưỡng hoặc chết, có người khác muốn nhận người dưới 18 tuổi làm con nuôi thì cơ quan có thẩm quyền không thể đăng ký nuôi con nuôi vì quan hệ nuôi con nuôi đã xác lập trước đây không thuộc các trường hợp được chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật (Điều 25 Luật Nuôi con nuôi). Như vậy, điều này sẽ gây thiệt thòi cho người dưới 18 tuổi.
Quý Khách hàng nếu cần tư vấn, giải đáp chi tiết hơn cũng như cách thức tiếp cận dịch vụ này có thể truy cập vào Website: hongbanglawfirm.com, vui lòng liên hệ trực tiếp với Luật sư Nguyễn Đức Trọng qua hotline: 0912.35.65.75 hoặc gọi điện đến Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900.6575 hoặc gửi yêu cầu dịch vụ qua email: lienheluathongbang@gmail.com
Chúc Quý Khách hàng cùng gia đình mạnh khỏe, an lạc và thành công!
Trân trọng!