Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tương đối
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì giao dịch đó phải đáp ứng một trong những điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 thì giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực khi hội tụ đủ bốn điều kiện sau:
- Chủ thể tham gia giao dịch có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
- Chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
- Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
- Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Về nguyên tắc, giao dịch dân sự không đáp ứng được một trong bốn điều kiện trên thì bị coi là vô hiệu (theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự). Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là giao dịch dân sự vi phạm điều kiện nào thì áp dụng trình tự vô hiệu tuyệt đối còn vi phạm điều kiện nào thì bị áp dụng trình tự vô hiệu tương đối? Ở phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ đi phân tích vào vấn đề giao dịch vô hiệu tương đối.
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thường là những giao dịch dân sự vi phạm những quy tắc pháp lý có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích pháp lý của một chủ thể xác định (cá nhân, pháp nhân,…).Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau:
- Khi giao dịch dân sự được xác lập bởi người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi cho đến chưa đủ 18 tuổi (có năng lực hành vi dân sự một phần);
- Khi giao dịch được xác lập bởi người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn;
- Khi một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị từ chối, đe dọa, cưỡng ép;
- Khi người xác lập giao dịch không nhận thức được hành vi của mình.
Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu tương đối
Thứ nhất, trình tự vô hiệu của giao dịch. Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên bị coi là vô hiệu mà chỉ nên vô hiệu khi hội tụ đủ những điều kiện nhất định, đó là (1) khi có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, và (2) có quyết định của toà án.
Thứ hai, Thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là (02) hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Thứ ba, hiệu lực pháp lý của giao dịch. Giao dịch dân sự thuộc trường hợp vô hiệu tương đối có hiệu lực pháp lý cho đến khi nào bị tuyên bố vô hiệu. Việc quy định thời hiệu 02 năm để yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu nói lên rằng trong khoảng thời hiệu đó, giao dịch dân sự có hiệu lực cho đến khi bị tuyên bố vô hiệu theo quyết định của toà án; còn khi đã hết thời hiệu khởi kiện trên thì giao dịch dân sự sẽ không bị tranh chấp về hiệu lực nữa.
Thứ tư, bản chất quyết định của toà án. Trong cả trường hợp vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối, toà án đều có thể ra quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì quyết định của toà án là cơ sở duy nhất làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Quyết định của toà án mang tính chất phán xử. Toà án tiến hành giải quyết vụ việc khi có đơn yêu cầu của các bên hoặc của đại diện hợp pháp của họ. Bên có yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước toà các cơ sở của yêu cầu.
Thứ năm, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
Tuỳ theo từng trường hợp vi phạm cụ thể mà toà án có thể buộc các bên gánh chịu hậu quả theo một trong ba phương thức khác nhau:
- Hoàn trả song phương: Các bên đều phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được từ bên kia;
- Hoàn trả đơn phương: Một bên được hoàn trả lại tài sản giao dịch còn tài sản giao dịch thuộc bên kia (bên vi phạm) thì bị tịch thu sung công quỹ;
- Tịch thu toàn bộ: Mọi tài sản giao dịch của cả hai bên vi phạm đều bị tịch thu sung công quỹ. Chế tài này thường được áp dụng đối với các quan hệ dân sự trong các vụ án hình sự.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì toà án chỉ áp dụng một trong hai phương thức hoàn trả song phương hoặc hoàn trả đơn phương. Hoàn trả song phương thường được áp dụng đối với các trường hợp giao dịch vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; do bị nhầm lẫn; do người xác lập không nhận thức được hành vi của mình. Còn phương thức hoàn trả đơn phương thì thường được áp dụng đối với giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ.
Ngoài ra, tuỳ theo từng trường hợp các bên chưa thực hiện hay đã thực hiện giao dịch mà giao dịch dân sự tương đối sẽ dẫn đến hậu quả khác nhau về một số vấn đề như sau:
Trong trường hợp giao dịch dân sự chưa được thực hiện
Giao dịch vô hiệu tương đối ngay từ khi Toà án có thẩm quyền chấp nhận yêu cầu của đương sự xác định giao dịch là vô hiệu thì giao dịch chấm dứt ngay lập tức, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ với bất kỳ bên nào, các bên không thực hiện giao dịch. Khi giao dịch vô hiệu tương đối chưa được thực hiện thì chưa làm phát sinh các hậu quả pháp lý cho các bên tham gia giao dịch, vì vậy vấn đề thiệt hại xảy ra, yêu cầu công nhận thoả thuận các bên và bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình không phát sinh trong trường hợp này.
Trong trường hợp giao dịch dân sự đã, đang thực hiện
Đối với trường hợp này, vấn đề về hoàn trả tài sản, thiệt hại xảy ra, thoả thuận của các bên, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình đều cần được đặt ra để đảm bảo giải quyết triệt để hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề này. Quý Khách hàng nếu cần tư vấn, giải đáp chi tiết hơn cũng như cách thức tiếp cận dịch vụ này, vui lòng liên hệ trực tiếp với Phó giám đốc phụ trách kinh doanh: Luật sư Nhật Nam qua hotline: 0912.35.65.75, 0912.35.53.53 hoặc gọi điện đến Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900.6575 hoặc gửi yêu cầu dịch vụ qua email: lienheluathongbang@gmail.com
Chúc Quý Khách hàng cùng gia đình mạnh khỏe, an lạc và thành công!
Trân trọng!