Cơ sở pháp lý
- Bộ luật dân sự 2015
- Luật Giao dịch điện tử 2005
- Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử
- Nghị định 85/2021/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử
Nội dung
Điều 36 của Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định về ký kết hợp đồng điện tử như sau: “Ký kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình ký kết hợp đồng. Như vậy, việc ký kết hợp đồng điện tử gắn liền một phần hoặc toàn bộ với việc sử dụng thông điệp dữ liệu điện tử. Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác. Việc các bên gửi thư điện tử, điện báo, fax, chứng từ điện tử, dữ liệu điện tử hướng đến mục đích giao kết hợp đồng điện tử chính là việc các bên tham gia vào quy trình giao kết hợp đồng điện tử.
Trong ký kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, đề nghị ký kết hợp đồng và chấp nhận ký kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.”
Như vậy có thể thấy, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác thì việc giao kết hợp đồng điện tử cũng liên quan đến đề nghị ký kết hợp đồng và chấp nhận ký kết hợp đồng thông qua việc sử dụng thông điệp dữ liệu. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra quy định pháp luật hiện hành về chấp nhận ký kết hợp đồng.
+ Về chấp nhận ký kết hợp đồng điện tử: Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông. Do việc nhận hợp đồng không theo phương thức gửi nhận trực tiếp mà thông qua phương thức gửi nhận trên môi trường mạng internet. Theo quy định pháp luật hiện hành, người nhận, thời điểm, địa điểm nhận thông điệp dữ liệu trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử được thực hiện theo quy định tại các điều 17, 18, 19 và 20 của Luật Giao dịch điện tử 2005, theo đó:
+ Người nhận thông điệp dữ liệu là người được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo thông điệp dữ liệu nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu đó. Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì việc nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:
- Người nhận được xem là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu được nhập vào hệ thống thông tin do người đó chỉ định và có thể truy cập được;
- Người nhận có quyền coi mỗi thông điệp dữ liệu nhận được là một thông điệp dữ liệu độc lập, trừ trường hợp thông điệp dữ liệu đó là bản sao của một thông điệp dữ liệu khác mà người nhận biết hoặc buộc phải biết thông điệp dữ liệu đó là bản sao;
- Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo có yêu cầu hoặc thoả thuận với người nhận về việc người nhận phải gửi cho mình thông báo xác nhận khi nhận được thông điệp dữ liệu thì người nhận phải thực hiện đúng yêu cầu hoặc thoả thuận này;
- Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã tuyên bố thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận thì thông điệp dữ liệu đó được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông báo của người nhận xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó;
- Trường hợp người khởi tạo đã gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo xác nhận thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi xác nhận; nếu người khởi tạo vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời gian đã ấn định thì người khởi tạo có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.
+ Thời điểm nhận thông điệp dữ liệu: Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:
- Trường hợp người nhận đã chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận là thời điểm thông điệp dữ liệu nhập vào hệ thống thông tin được chỉ định;
- nếu người nhận không chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu đó nhập vào bất kỳ hệ thống thông tin nào của người nhận;
+ Địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở của người nhận nếu người nhận là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú thường xuyên của người nhận nếu người nhận là cá nhân.
Trường hợp người nhận có nhiều trụ sở thì địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.
Trong trường hợp người người nhận chỉ định một hoặc nhiều hệ thống thông tin tự động nhận thông điệp dữ liệu để chấp nhận giao kết hợp đồng điện tử thì việc gửi thông điệp dữ liệu được thực hiện theo quy định tại các điều 16, 17, 18 và 19 của Luật Giao dịch điện tử 2005.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề này. Quý Khách hàng nếu cần tư vấn, giải đáp chi tiết hơn cũng như cách thức tiếp cận dịch vụ này, vui lòng liên hệ trực tiếp với Phó giám đốc phụ trách kinh doanh: Luật sư Nguyễn Đức Trọng qua hotline: 0912.35.65.75, 0912.35.53.53 hoặc gọi điện đến Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900.6575 hoặc gửi yêu cầu dịch vụ qua email: info@hongbanglawfirm.com hoặc lienheluathongbang@gmail.com
Chúc Quý Khách hàng cùng gia đình mạnh khỏe, an lạc và thành công!
Trân trọng!